Tổng quan các loài cá voi trên trái đất
Có khoảng 88 loài cá voi và cá heo trên các vùng biển và sông trên thế giới, trong đó có khoàng 37 loài thường xuyên xuất hiện ở biển phía nam. Không phải tất cả các loài được thống kê ở trên là dễ dàng có thể nhìn thấy. Trong đó có 5 loài là thường được nhìn thấy khi băng qua Eo biển Drake và vùng biển Châu Nam Cực. Việc tập trung thức ăn trong suốt mùa hè ở biển phía nam đã thu hút nửa số lượng động vật biển có vú đến đây kiếm ăn. Mười một loài cá heo được tìm ở biển phía nam mặc dù rất ít được thấy ở biển gần Châu Nam Cực. Cá voi Vây dài thường được thấy ở Eo biển Bán Đảo Châu Nam Cực, cá voi Sát Thủ thường được thấy khi đang săn mồi trong những tốp nhỏ bơi cùng bố, mẹ và con con ở vùng biển Bán Đảo Nam Cực. Cá voi được chia là 2 loại phụ thuộc vào cấu tạo răng của nó. Một loại được gọi là cá voi tấm sừng khi cấu tạo trong miệng của nó là những lớp tấm sừng để tiêu hóa thức ăn. Tấm sừng được cấu tạo bởi những chất tương tự cấu tạo nên móng tay và tóc. Những loài này khi săn mồi sẽ mở mồm to từ 0.6 mét cho đến hơn 4 mét tùy thuộc từng loài rồi đớp cả nước và các loài nhuyễn thể, loài chân kiếm vào mồm và sử dụng tấm sừng này như một chiếc vợt để giữ lại thức ăn trong miệng. Lưỡi sẽ quét hết lớp tấm sừng để bắt và nuốt con mồi sau đó nước được đẩy ra ngoài miệng. Nguồn thức ăn là loài nhuyễn thể tìm thấy ở giữa
Bán Đảo Châu Nam Cực và Đảo South Georgia đã thu hút rất lớn số lượng cá voi tấm sừng đến đây tìm kiếm thức ăn cùng với con của chúng. Thứ hai là loài cá voi có răng như các loài động vật có vú khác. Chúng bao gồm cá nhà táng, cá voi Sát Thủ, cá heo…Động vật có xuất hiện vào khoảng thời gian 55 đến 60 triệu năm trước. Ngày trước các nhà khoa học từng nghĩ rằng hai loài cá voi tấm sừng và có răng là không cùng tổ tiên, nhưng sau này các nhà khoa học đã đồng ý rộng rãi rằng chúng có chung tổ tiên mà tồn tại 30 triệu năm trước. Loài động vật có vú mà có quan hệ mật thiết nhất với cá voi sống đến bây giờ là loài hà mã. Để giữ ấm cá voi và cá heo có một lớp mỡ chưa nhiều dầu dày ở dưới lớp da. Lớp mỡ này có thể dày đến 30cm, nó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến việc săn bắt cá voi để lấy dầu chiếu sáng trước khi đèn điện được phát minh. Cá voi sinh duy nhất 1 con và cho con bú sau đó. Sữa cá voi chứa chất béo lên tới 40% và chứa lượng calo gấp 5 lần so với sữa người. Sữa rất đậm đặc giống như kem đánh răng và được bơm qua đầu vú vào miệng của cá con để tránh bị loãng từ nước. Chức năng này cho phép cá voi con tránh việc nuốt phải nước quá nhiều trong lúc bú để bú được nhiều sữa và lớn nhanh hơn. Cá voi hô hấp bằng phổi, chúng có lỗ mũi trên đỉnh đầu được di chuyển từ gần miệng qua quá trình tiến hóa hàng triệu năm để thích nghi với cuộc sống ở đại dương. Cá voi lặn dưới độ sâu mà không bị nước vào mũi gây sặc kể cả dưới áp lực nước lớn bởi dưới mũi của chúng có một lớp cơ rất khỏe khi chúng lặn sâu xuống đại dương, lớp cơ này sẽ đóng chặn lỗ mũi lại không cho nước vào mũi và khi nó ngoi lên để thở trên mặt nước thì lớp cơ sẽ mở ra để nó hít thở khí oxy vào phổi. Thêm đó việc thực quản và khí quản tách riêng biệt cũng giúp nó tránh sặc nước khi bơi lặn. Các loài cá voi tấm sừng hàm vẫn có hai lỗ mũi, trong khi những loài cá voi có răng chỉ còn lại một lỗ mũi. Các cột nước phun từ lỗ mũi cá voi xuất hiện trong quá trình hô hấp của cá voi đã một thời gian đem lại nguy hiểm với chúng khi những thợ săn cá voi dễ dàng phát hiện chúng dễ hơn ở đại dương thông qua những cột nước này.
 
Cá voi lưng gù
Hiện tại số lượng ghi nhận được khoảng 38 nghìn cá thể trong đó 20.000 – 30.000 cá thể sống ở Nam Bán Cầu. Số lượng của nó đáng ra đã tăng lên nhiều nếu không bị săn bắt để lấy dầu vào những năm 1800 đến 1900.  Trước khi bị săn bắt, số lượng ước tính khoảng 100.000 cá thể. Hiện tại thường thấy khoảng 2.500 cá thể ở biển phía nam được thấy bởi khách du lịch tham quan Châu Nam Cực trong suốt mùa hè. Chúng là loài động vật có vú di cư dài nhất trên thế giới với quãng đường 8.000km. Con trưởng thành nặng tới 36 tấn và dài 19 mét. Con đực thường nhỏ hơn con cái. Cá voi Lưng Gù thường có những động vật ký sinh sống trên da. Có 2 chiếc vây ngực có thể dài đến 5m làm nhiệm vụ chân chèo cho cá voi. Khi nó thổi nước lên không trung thường có hình chữ V và lên tới độ cao 3 mét từ bề mặt nước.
Cá voi Lưng Gù là loài cá voi hoạt động chủ yếu ở bề mặt của biển. Nó như một điệp viên năng động khi luôn quẫy đuôi, phun nước, đập vây hoặc đôi khi là nhảy hẳn lên mặt nước. Thật tuyệt vời và may mắn cho những du khách nào được thấy cá voi Lưng Gù phô diễn những hoạt động này. Tôi và một đoàn du khách Việt Nam khi tham quan Đảo Greenland cũng đã may mắn được thấy cảnh tượng này, cả đoàn vui sướng vô cùng. Cá voi Lưng Gù ăn chủ yếu là nhuyễn thể và cá nhỏ đi theo bầy. Chúng đi săn bằng cách bơi quanh đàn cá, nhuyễn thể, tạo thành những bong bóng nước khổng lồ lập nên bức tường ở dưới bao quanh đàn cá, cách săn bằng bóng nước ở phía nam không phổ biến bằng phía bắc bán cầu. Sau khi lập hàng rào xong, chúng lao vào đàn cá há miệng ra nuốt nhiều nhất có thể. Cá voi Lưng Gù sẽ bước vào mùa sinh sản khi con trưởng thành đến 7 năm tuổi. Con đực hấp dẫn con cái bằng những bài hát dưới nước và thu hút các nhà khoa học baonhiêu thập kỷ để nghiên cứu. Vào khoảng tháng 8, con cái sẽ sinh 1 con ở vùng biển nước ấm vùng nhiệt đới. Con con sẽ cai sữa sau 1 năm. Một số con mẹ sẽ ở lại vùng nước ấm cùng con, một số khác sẽ di chuyển về phía nam đến Châu Nam Cực. Cá cái sinh con sau thời gian tầm 2 đến 3 năm một lần. Cá voi Lưng Gù cũng sống thành từng tốp nhỏ, lớn nhất có thể lên tới 15 cá thể. Nó không xuất hiện thường xuyên, nhưng sẽ rất may mắn nếu khách du lịch được thấy cả cá mẹ và cá con bơi cùng nhau.

Cá voi Minke
Có lẽ đây là loài cá voi có số lượng nhiều nhất so với các loài cá voi khác với số lượng ước tính lên tới 300.000 đến 400.000 con. Nó thường được thấy ở vùng biển Bán Đảo Nam Cực và một số vùng biển gần lục địa Châu Nam Cực trong suốt mùa hè phương nam. Kích thước nhỏ, cá voi Minke thường săn những loài cá nhỏ. Hiện tại có khoảng 400 cá thể cá voi Minke thường bị săn bắt bởi những công ty săn cá voi Nhật Bản với mục đích “ khoa học”. Một trong những loài cá voi nhỏ nhất, độ dài của chúng chỉ tầm 7 đến 10 mét và nặng đến 9 tấn. Cá voi Minke có thể bơi nhanh nhờ thân hình bóng bẩy và thon gọn.
Con cái dài hơn con đực tầm 1 mét. Màu nâu xuất hiện ở lưng khi nó nổi lên bề mặt nước. Vây ngực dùng để bơi nhưng ít khi thấy nó đạp và quẫy trên mặt nước như cá voi Lưng Gù. Nó cũng có thể thổi được nước lên không trung từ lỗ khí trên đầu tầm 3 mét nhưng ít khi được nhìn thấy.
Cá voi Minke là loài cá voi sừng tấm và ăn loài nhuyễn thể được săn ở gần mặt nước. Cá trưởng thành bắt đầu sinh sản vào tầm 7 tuổi, việc giao phối diễn ra vào tháng 6 đến tháng 9 bất kể khi nào. Cá cái mang thai 10 tháng và con được sinh ra trong vùng nước ấm vào tháng 5 và 6.
 
Cá voi Sei
Loài cá voi này ít được biết đến bởi vì nó ít khi bơi đến các vùng bờ biển, môi trường sống chủ yếu của nó là những vùng nước sâu. Ước chừng số lượng của nó ở bờ biển phương nam là khoảng 10.000 đến 70.000 con. Con lớn kích thước đến 20 mét và nặng tầm 30 tấn. Con cái lớn hơn con đực. Màu sắc của cá voi là phần lớn nâu xám với những chấm ở đầu, loài cá này hay bị nhầm lẫn với cá voi Vây và các voi Minke. Chúng cũng phun được nước lên không trung ở độ cao 3 mét và xiên về phía sau. Đuôi cá voi không bao giờ nâng lên mặt nước nhưng vây ngực và vây lưng có thể thấy trên mặt nước khi nó bơi. Cá voi Sei thường ăn nhuyễn thể, mực và cá nhỏ bằng cách hớt trên bề mặt với chiếc miệng rộng và hàm đầy tấm sừng của nó. Loài cá này có khả năng bơi nhanh hơn các loài cá voi khác trong việc săn mồi. Cá đực và các cái bắt đầu sinh sản khi được từ 10 tuổi, nhưng thực sự đến tầm khoảng 25 tuổi hoạt động sinh sản của chúng mới ổn định và đạt đỉnh.

Việc đẻ con xuất hiện vào tháng 6, không có nhiều thông tin về việc kết đôi nhưng mang thai của con cái tầm 11 tháng. Con con được cai sữa đến tháng thứ 7 trong vùng nước lạnh hơn vì ở đó có nguồn thức ăn dồi dào. Cá voi Sei thường sinh sản hai hoặc 3 năm một lần. Mặc dù đôi khi có thấy những tốp nhỏ tầm 5 cá thể được nhìn thấy nhưng những tốp đó không ổn định.
 
Cá voi Vây ( Fin Whale)
Hiện tại số lượng khoảng 85.000 đến 120.000 cá thể. Thời kỳ trước khi con người săn bắt và sử dụng những súng phóng lao hoạt động bằng máy để săn cá voi thì số lượng của nó ước chừng 400.000 đến 500.000 cá thể. Các voi Vây là loài cá voi phân bố khắp thế giới rộng nhất so với các loài cá voi khác, nó cũng có những chuyến di cư khắp toàn cầu. Những tốp nhỏ ở Bán Cầu Nam rời sang phía bắc trong suốt mùa thu phương nam. Trước khi thực hiện chuyến di cư này, những cá thể cá voi có thể được thấy ở những mép băng ở phía nam ở tọa độ không xa hơn 60oS. Con trưởng thành dài đến 25 mét và nặng tới 70 tấn. Cá voi cái to hơn cá voi đực. Nó có một cơ thể màu nâu dài và trơn với vây ngực nhỏ uốn móc hơn so với cá voi xanh nhưng lại không cong bằng so với cá voi Sei. Vây ngực xuất hiện trên bờ mặt nước thời gian ngắn sau khi nó thổi nước từ lỗ khí trên đầu. Nó thổi được nước rất cao lên tới 6 mét với cột nước hẹp. Loài này thường thấy với những tốp nhỏ tầm 3 cá thể. Chúng thường ăn các loài cá nhỏ và nhuyễn thể.

Con cái sẽ bắt đầu sinh sản khoảng từ 6 đến 12 tuổi, mùa sinh sản diễn ra vào tháng 7 với việc mang thai tầm 11 tháng. Con con được sinh ra ở vùng nước
ấm trong suốt mùa đông phương nam và được cai sữa khi lớn khoảng 7 tháng tuổi. Sau đó con mẹ và con con di cư đến vùng biển phía nam để tìm thức ăn. Con cái sinh con sau thời gian 2 đến 3 năm.
 
Cá voi Xanh
Số lượng cá voi xanh trên thế giới rất thấp ước chừng khoảng dưới 10.000 cá thể trong đó có khoàng 700 đến 1.200 cá thể sống ở biển phương nam. Trước thời kỳ săn bắt cá voi khủng khiếp bằng súng bắn lao bằng máy cho phép những thợ săn cá voi dễ dàng săn nhanh hơn, trúng đích hơn thì số lượng của nó lên tới 220.000 trên toàn thế giới. 
Từ biển phía nam, chúng di cư về hướng bắc trong mùa đông xa nhất đến Ecuador và Brazil và có thể tìm được thấy vào mùa hè ở những vùng biển băng tuyết phương nam. Cá voi xanh là loài động vật lớn nhất sống trên trái đất. Con lớn trưởng thành có thể dài đến 33 mét ( trung bình 25 mét) và nặng đến 150 tấn ( có những ghi nhận lên tới 190 tấn). Con cái lớn hơn con đực. Cơ thể nó được bao phủ bởi màu xanh hơi nâu với những chấm nhỏ hơi sáng màu. Khi nó thở, lưng và lỗ thở nâng lên mặt nước hơn các loài các voi cùng loài khác. Nó có thể thổi nước lên đến 12 mét trên không trung. Quẫy đuôi có thể nhìn thấy khi nó lặn và cơ thể sẽ xuất hiện ở phần nửa dưới.
Chúng thường đi theo tốp chứ không đi đơn lẻ. Chúng chỉ ăn loài động vật phù du lớn. Cá đực và cá cái bắt đầu sinh sản ở giai đoạn 10 năm tuổi. Mùa sinh sản bắt đầu vào cuối mùa hè phương nam. Con cái mang thai trong 11 tháng và con con được sinh ra ở vùng nước ấm và được cho bú đến 7 tháng tuổi mới phải cai sữa. Con cái thường đẻ con sau 2 đến 3 năm.

Cá voi Southern Right
Ước chừng có khoảng 5.000 cá thể. Trước thời kỳ săn bắn khủng khiếp cá voi từ năm 1800 đến 1970, số lượng của chúng ước đạt 100.000 con trên thế giới. Chúng sống ở những vùng biển phía nam Đại Tây Dương, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương và không tìm thấy xa hơn vùng biển phía nam của Brazil. Trong suốt mùa hè chúng kiếm ăn ở vùng biển phương nam gần lục địa Châu Nam Cực và thường được thấy ở vùng biển Bán Đảo Châu Nam Cực.
Kích thước của cá voi Southern Right lên tới 17 mét và nặng 45 tấn. Cá cái lớn hơn cá đực, thân thể rắn chắc với chiếc đầu được đo bằng 1/3 so với chiều dài cơ thể. Lớp da màu đen với những những khoang trắng nhỏ ở phần dưới bụng. Loài cá này không có vây lưng, những lớp chai ở trên đầu dễ dàng có thể thấy khi chúng nổi lên mặt nước. Như những loài cá voi tấm sừng khác, cá voi Southern Right ăn các loài nhuyễn thể trên bề mặt nước biển. Cá cái bắt đầu sinh sản khi 15 tuổi, kết bạn tình thường diễn ra ở vùng biển Argentina vào tháng 9. Một cá cái có thể giao phối với nhiều con đực. Sau khi mang thai 12 tháng, cá con được sinh ra ở nhiều vùng biển như gần các đảo ở vùng biển phía nam, gần vùng biển Buenos Aires trong suốt mùa đông phương nam. Cá con được cho bú đến 6 tới 12 tháng tuổi mặc dù nó sẽ vẫn theo mẹ thời gian dài hơn. Chu kỳ sinh sản của cá cái là tầm 3 đến 4 năm một lần.
 
Cá Voi Đầu Tròn Vây Dài (Long Finned Pilot)
Loài này có khoảng 200.000 cá thể sống ở Biển Đại Tây Dương, Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương không vượt quá về phía nam ở tọa độ 60oS, tuy nhiên đôi khi vẫn thấy chúng ở tọa độ 68oS vào mùa hè phương nam. Độ dài thân thể là 7 mét và nặng đến 3 tấn. Cá cái nhỏ hơn cá đực. Loài cá này sở hữu một thân hình nhỏ, mảnh khảnh, đầu tròn và vây dài, thường bơi theo nhóm 40 cá thể. Vây lưng của cá cái thì như cái móc mảnh khảnh còn cá đực thì vây lưng nhìn thấy cong rõ rệt. Chúng có thể thổi nước lên không trung tầm 1 mét nhưng ít khi được nhìn thấy. Vây ngực dài khoảng 20% cơ thể.
Thức ăn của loài cá này là cá và mực được bắt bằng việc lặn dưới biển. Một con đực kết bạn tình với nhiều con cái. Quá trình mang thai là 16 tháng và con cái thường sinh đẻ sau 5 đến 6 năm. Cá con được cho bú sữa từ 18 đến 36 tháng tuổi.
 
Cá voi Sát Thủ ( Killer Whale)
Cá voi Sát Thủ hay còn gọi là cá Heo Đen Lớn hay cá Hổ Kình nằm trong bộ cá voi có răng, họ hàng với cá heo đại dương. Số lượng được ghi nhận ở biển phía nam là 80.000 con. Cá voi Sát Thủ chưa bao giờ là mục tiêu chính của các thợ săn cá voi tuy nhiên vào thời kỳ năm 1900 số lượng của nó so với hiện nay nhiều hơn tầm 5.000 con. Cá voi Sát Thủ được tìm thấy khắp các vùng biển trên trái đất.
Chúng thường đi săn theo bầy gồm cả con cái, con đực và con con dọc theo bờ biển cua Châu Nam Cực. Con đực dài đến 9 mét và nặng đến 8 tấn. Con cái nhỏ hơn con đực với độ dài 8 mét. Con trưởng thành có vây lưng cao, có những con vây lưng được đo tới 2 mét và dễ dàng nhận ra khi bơi dưới nước. Chúng có thân thể màu đen và những đốm trắng bao quanh mắt và ở phần phía dưới cơ thể. Con mồi của cá voi Sát Thủ là cá, mực, chim cánh cụt, chim Petrels, hải cẩu thậm chí là đàn cá voi Minke hoặc cá voi Lưng Gù. Cá voi Sát Thủ thường đi theo đàn nhỏ với một con đực và nhiều con cái và con con, mỗi đàn tầm 20 cá thể. Con con được sinh ra trong mùa đông phương nam sau 15 – 18 tháng mang thai. Cá cái thường sinh con sau 5 năm
 
Cá Nhà Táng ( Sperm Whale)
Cũng nằm trong gia đình cá voi, Cá Nhà Táng ước chừng khoảng 40 năm trước có khoảng 2 triệu cá thể trên khắp thế giới. Nhưng thực sự con số đó được cho là đã thổi phồng quá sức, theo những nghiên cứu mới đây có khoảng 30.000 con Cá Nhà Táng đực thường đến vùng biển phía nam trong suốt mùa hè phương nam trong khi những con cá cái vẫn ở vùng biển ấm suốt cả năm. Chúng được tìm thấy ở các vùng biển Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và Biển Bắc Cực.
Cá Nhà Táng thường sống ở những vùng biển xa bờ, nước sâu và có thể lặn ở độ sâu tối đa ghi nhận là 3.219 mét, còn trung bình thì chúng hay lặn ở độ sâu 1.000 mét. Chúng là loài động vật có răng lớn nhất trên trái đất. Kích thước của nó lên tới 19 mét và nặng tới 60 tấn. Con đực lớn hơn con cái. Cá Nhà Táng có một cái đầu hình vuông dễ nhận biết với một lỗ thở ở bên trái và có thể thổi nước lên không trung tầm 2 mét và xoay ngươi được sang bên trái để thổi nước. Vây lưng rất nhỏ và có thể thấy trên bề mặt nước nếu nổi lên. Giữa vây lưng và đuôi có thể thấy nhiều lớp nhỏ mấp mô có thể quan sát được. Những cái quẫy đuôi thường được thấy khi chuẩn bị lặn. Cá Nhà Táng là loài cá có răng và thường săn con mồi trong quá trình lặn dưới biển. Nó thường ăn các loài cá, mực, đôi khi còn săn cả cá mập. Con cái thường săn thành nhóm nhỏ, còn con đực thì săn một mình. Các Nhà Táng là loài sống theo đàn dựa vào độ tuổi và giới tính, tuy nhiên những con đực già thường rời đàn sống cô độc ngoại trừ mùa sinh sản. Nó cũng là loài sống đa thê. Trong mùa sinh sản, một đàn thường gồm 1 đến 5 con đực lớn sẽ chiến đấu để giao phối với một nhóm các con cái. Cuộc chiến này sẽ khá ác liệt và gây ra những vết thương trên đầu của những con đực, có thể thấy bằng những vết sẹo. Ước tính chỉ 10 – 25% con đực được giao phối với con cái trong mùa sinh sản. Cá Nhà Táng sẽ không kết bạn tình cho đến khi nó khoảng 20 tuổi, việc kết bạn tình sẽ diễn ra trong suốt cả năm, mùa đỉnh điểm là vào tháng 10 và 11. Cá con được sinh vào vùng nước ấm sau khi được mang thai 14 tháng. Cá con được mẹ cho bú đến tầm 3.5 năm sau đó cai sữa. Chu kỳ sinh sản của loài này rất dài, cá cái sẽ chỉ sinh đẻ một lần trong 4 đến 5 năm