Có tới 35 loài chim được tìm thấy ở ranh giới của Biển Phương Nam trong thời gian mùa đông hoặc mùa hè, trong đó có 16 loài được biết là sinh sản ở lục địa Châu Nam Cực. Hai loài sinh sản ở những hòn đảo ngoài khơi biển Châu Nam Cực và một số lượng nhỏ chim cánh cụt Macaroni sinh sản ở Đảo South Shetland. Có tới 200 triệu cá thể chim được cho là đến sinh sản hoặc tìm kiếm thức ăn ở Châu Nam Cực trong suốt những tháng mùa hè, trong đó 65% là chim cánh cụt.
Mùa hè Châu Nam Cực đem đến nguồn thức ăn dồi dào cho các loài động vật nhưng chuỗi thức ăn đó không được duy trì lâu dài bởi những tháng mùa hè ở đây rất là ngắn, vì vậy việc kiếm ăn và sinh sản ở đây được các loài động vật tiến hành một cách rất gấp rút. Thậm chí một lỗi nhỏ gây ra trong mùa này cũng phải trả giá. Ví dụ như nếu đến muộn để sinh sản trong quần thể đông đúc chim cánh cụt thì cũng không có cơ hội để tìm được chỗ vừa ý và chắc chắn để sinh sản hoặc giảm chất lượng nơi sinh mà tiện cho việc kiếm ăn sau này, chưa kể có những chỗ mà giảm nguy cơ bị các loài động vật săn mồi rình rập…
Chim Hải Âu
Gia đình hải âu nằm trong họ chim với tên khoa học Diomedeidae là một phần của bộ chim biển Procellariiformes.Có khoảng125 loài còn sinh tồn trong bộ Procellariiformes phân bố trên toàn cầu, bộ này được chia thành 4 họ còn sinh tồn và 01 họ tuyệt chủng:
1 Họ Diomedeoididae
2 Họ Procellarridae
3 Họ Diomedeidae
4 Họ Hydrobaridae
5 Họ Pelecanoididae

Với họ chim Diomedeidae, các Nhà Điểu Học chia ra 4 chi và giữa khoảng 13 – 24 loài theo tùy vùng phân loại, nhưng được các nhà khoa học chấp nhận rộng rãi nhất là 21 loài. Trong đó vùng biển phương nam và Châu Nam Cực là môi trường sống của một số loài hải âu như hải âu Wandering, hải âu Southern Royal, hải âu Black - Brown, hải âu Grey - Headed… Hải Âu lúc bay dễ dàng nhận biết được với đôi cánh dài, đuôi ngắn. Nó tận dụng được những cơ gió mạnh của phương nam và lượn trong không trung tiết kiệm ít năng lượng nhất có thể. Cẩn thận quan sát lúc nó bay sẽ tiết lộ ra phương pháp bay của nó: Hải Âu liệng xuống dưới những cơn gió đến vùng không gian giữa những con sóng, chạm vào nước ở phần đầu của đôi cánh, sau đó bay lên độ cao vượt qua những cơn sóng hướng theo chiều gió. Khi gió mạnh, hải âu có thể đạt tới tốc độ 80km/h. Đập cánh cũng là một việc quá xa hoa với loài chim này khi những con hải âu Wandering sở hữu đôi cánh dài lên tới 3 mét và nặng tới 10kg. Thời gian của nó sống ở không trung ở trên mặt nước là chủ yếu, nó liên tục lượn trên mặt nước để tìm kiếm thức ăn. Trong thực tế, hải ân phân bố chủ yếu ở vĩ độ thấp.
 
Chim hải âu Wandering
Hiện nay có khoảng trên 50.000 cá thể. Vị trí mà chúng sinh sản là ở những hòn đảo ở biển phương nam như South Georgia, Prince Edward và Kerguelen.

Đôi khi mở rộng xa nhất về hướng bắc ở tọa độ 22o S. Chim hải âu Wandering là loài chim bay lớn nhất trên thế giới với sải cánh dài nhất tới 3.5 mét và nặng 11 kg. Con trưởng thành có lưng màu trắng với cánh màu nâu đen và đuôi ngắn, mỏ thì màu hồng. Một chút lông màu hồng đào được thấy ở sau tai nhiều hơn ở chim đực. Chim non có bộ lông màu tối trên khắp cơ thể. Để phân biệt giữa hải âu Wandering và Hải Âu Southern Royal là rất khó khăn, nhiều khi là không thể. Thức ăn chủ yếu của hải âu Wandering là mực được bắt trên bề mặt nước đôi khi chúng lặn sâu xuống nước khoảng 1 mét để bắt con mồi. Hải Âu Wandering bắt đầu đến những hòn đảo để sinh sản vào khoảng tháng 11 và xây tổ với bùn và cỏ. Cả bố và mẹ đều ấp trứng trong thời gian khoảng 3 tháng, trong những tuần đầu, chim con được cả chim bố và chim mẹ cho ăn. Sau thời gian 1 năm chim con sẽ mọc lông, rồi nó rời tổ nhưng vẫn được sự chăm sóc của bố mẹ trước khi tự lập bay ra biển tìm kiếm thức ăn.
 
Hải Âu Southern Royal
Có khoảng 29.000 cá thể. Chúng tập trung sinh sản một số lượng giới hạn ở những đảo thuộc vùng biển phía nam New Zealand và dọc theo vùng biển Nam Thái Bình Dương.

Giống như hải âu Wandering, Hải Âu Southern Royal có kích thước cánh lên tới 3.5 mét với trọng lượng lớn nhất lên đến 10kg. Con trưởng thành có lưng màu trắng với cánh màu đen nhưng đuôi thì màu trắng. Không giống như hải âu Wandering, con con là tương đối giống con trưởng thành bề ngoài và màu trắng hơn so với con con của hải âu Wandering, mỏ của chúng thì màu hồng. Thực đơn chính của loài này là mực bắt trên bề mặt nước, đôi khi nó lao xuống nước để bắt con mồi. Con trường thành trở lại quần thể sinh sản vào cuối tháng 11 và 12. Con cái đẻ 1 trứng và ấp trong vòng 80 ngày. Sau khi nở, con con được chăm sóc cẩn thận bởi cả chim bố và chim mẹ cho đến khoảng 250 ngày tuổi. Sau một mùa sinh sản dài, chim trưởng thành sẽ có thời gian để lấy lại trọnglượng cơ thể để tiếp tục cho mùa sinh sản năm tới.
 
Hải Âu Black – Brown ( Hải Âu Nâu Đen)
Loài hải âu này là loài phân bố rộng rãi và số lượng nhiều nhất trong các loài hải âu, dự tính có đến 1.2 triệu cá thể. Tuy nhiên thời gian gần đây số lượng đang bị giảm một cách đột ngột. Quần thể chim Hải Âu Black – Brown tập trung sinh sản ở vùng phía nam Chile và các hòn đảo phía nam như Malvinas,South Georgia, Kerguelen, Heard và Macquarie. Sau đó khi hết mùa sinh sản, chúng phân tán xa nhất lên phương bắc ở tọa độ 20oS.
Loài chim này có một đôi cánh 2.5 mét và nặng đến 5kg. Dễ dàng phân biệt với hải âu Wandering không chỉ bởi kích thước, nó có một dấu nổi bật bao quanh mắt và cánh phía trên màu đen cùng với cả phần lưng màu đen. Cái mỏ thì màu da cam, đôi chân thì màu nâu nhạt. Thực đơn chủ yếu của loài này là cá và loài nhuyễn thể được bắt trên bề mặt nước. Đôi khi nó cũng lao xuống và lặn dưới nước để bắt con mồi. Chúng trở về quần thể để sinh sản từ cuối tháng 9 đến tháng 11, nơi đây chúng bắt đầu làm những chiếc tổ bằng cỏ, bùn và rễ cây. Con cái để được 1 trứng và được ấp trong thời gian tầm 70 ngày. Chim con mọc lông trong 120 ngày sau khi nở và được bố mẹ chăm sóc một cánh công bằng. Cặp đôi chim cái và chim đực dường như gắn bó với nhau trọn đời.
 
Hải âu Grey Headed ( Hải Âu Đầu Nâu)
Có khoảng 250.000 các thể sống ở biển phía nam từ tọa độ 58o đến 25oS. Kích thước cánh của nó là 2.2 mét, trọng lượng lên tới 3.75kg. Nó dễ dàng nhận biết bằng đặc điểm có đầu nâu và vạch sọc màu vàng sáng dọc từ giữa của đầu và cuối của mỏ. Hải Âu Grey Headed sinh sản 2 năm một lần bắt đầu từ tháng 9. Nó liên kết tổ với đất, cỏ và rễ cây, sau đó để 1 trứng ở giữa tổ.
Trứng được ấp trong thời gian khoảng 75 ngày, sau khi trứng nở, con con được chăm sóc đến 140 ngày bởi cả chim bố và chim mẹ. Cặp đôi chim hải âu này dường như cũng có quan hệ gắn kết cả cuộc đời với nhau.
Chim Petrels
Gia đình Chim Petrels nằm trong họ chim Procellarridae là một phần của bộ chim Procellariiformes cùng với hải âu. Với họ chim Procellarridae, các Nhà Điểu Học chia là làm 14 chi và hơn 80 loài ( mặc dù con số loài vẫn bị tranh luận).

Chim Petrels dành cả đời ngoại trừ thời gian sinh sản ở biển nơi chúng có thể bắt động vật phù du, mực, cá và động vật giáp xác. Hầu như chim Petrels là sống theo đàn, sống trong quần thể và xây nhiều loại tổ khác nhau, một số tổ ở trong những hốc ở những vách đá, một số lại được tạo bởi những những hòn đá cuội và đá vụn, một số lại được tạo bởi lông, cỏ thậm chí là xương… Chim cái chỉ đẻ một quả trứng, sau khi nở được lấy thức ăn từ bố mẹ nhả ra từ miệng. Thường cá được lưu trữ trong dạ dày chim bố mẹ, được bảo vệ bởi một loại dầu đặc biệt mà có thể được phóng ra từ dạ dày khi bố mẹ muốn cho chim con ăn.
Khi nghiên cứu chim Petrels, các nhà khoa học đã chứng minh rằng nhờ khứu giác tốt, chúng có thể phân biệt được bạn tình thông qua việc ngửi mùi hoặc phân biệt được con mẹ và con con cũng thông qua khả năng này. Khả năng này cũng hết sức quan trọng bởi khi con mẹ đi kiếm mồi trở về đàn, phải phân biệt
được con con trong lúc đang đói chờ thức ăn giữa rất nhiều các con khác.
Chim Southern Giant Petrel ( Chim Petrel Lớn Phƣơng Nam)
Số lượng khoảng trên 100.000 con trưởng thành. Nó tập trung sinh sản ở những quần thể ở phía Nam Mỹ cho đến Đảo South Shetland. Ngoài ra được ghi nhận phân bố xa nhất ở phương bắc là tới tọa độ 2oS. Nó là loài lớn nhất trong
Chim Petrels với kích thước đôi cánh là 2.1 mét và cân nặng có thể lên tới 5kg. Từ cổ lên hết đầu là màu trắng, còn toàn thân mình là trắng đen pha tạp, nó có một cái mỏ lớn với một chút màu hơi xanh.
Chim Southern Giant Petrel. 
Chim Southern Giant Petrel được coi là chim kền kền của Châu Nam Cực bởi nó ăn xác thối. Nó ăn xác của các loài động vật như cá voi, hải cẩu và các loài chim khác bao gồm cả chim cánh cụt. Ngoài ra nó còn săn chim cánh cụt và các loài cá, mực trên bề mặt nước. Có liên hệ mật thiết với quần thể chim cánh cụt và hải cẩu, Chim Southern Giant Petrel thích chọn những nơi mà có thể dễ dàng cất cánh lên không trung để làm tổ. Mùa sinh sản của nó bắt đầu từ tháng 10 khi nó trở về quần thể và xây tổ. Một quả trứng được đẻ vào tháng 11 và nở sau hai tháng. Chim con được bố mẹ chăm sóc cho 3 tuần đầu, sau đó bố mẹ đi ra biển để kiếm thức ăn về cho con. Chim con bắt đầu mọc lông vào đầu tháng 5.

Chim Cape Petrel
Số lượng ước chừng khoảng 250.000 đến 600.000 cá thể. Chim Cape Petrel sống trong một phạm vi rộng ở biển, tiếp cận điểm xa nhất phía bắc là
Đảo Galapagos. Quần thể loai chim này sinh sản ở các đảo ở biển phía nam. Loài chim này kích thước nhỏ với sải cánh 85cm và nặng tầm 450g với màu trắng và đen trên cơ thể hòa lẫn với nhau.
Thực đơn của chúng là cá, mực và nhuyễn thể bắt trên mặt biển. Đôi khi chúng cũng được tìm thấy khi đang ăn xác thối của các loài động vật khác. Con trưởng thành trở lại quần thể sinh sản vào tầm tháng 11 và 12, sau đó đẻ một trứng trong chiếc tổ được làm từ những hạt sỏi và đá nhỏ. Trứng được ấp trong 45 ngày và chim con mọc lông sau 55 ngày, được chăm sóc bởi cả chim bố và mẹ. Loài chim này cũng là loài chim mà sống chung thủy.
Số lượng khoàng 2 triệu cá thể. Phân bố rộng rãi ở bờ biển phía nam và bờ biển Nam Mỹ. Chim tập trung sinh sản ở phía đông của Châu Nam Cực hoặc các đảo nằm ở biển phía nam giữa Nam Mỹ và Châu Phi. Sải cánh của nó tầm 120cm và con trưởng thành nặng không quá 1kg. Chim Southern Fulmar có chiếc mỏ màu hồng, thân người dưới và lưng màu trắng, ở phần cuối cánh có lông đen nâu. Chúng ăn nhuyễn thể, cá, mực trên mặt nước. Con trưởng thành bắt đầu mùa sinh sản vào tháng 12 ở những quần thể lớn cùng những loài hải âu Petrel khác. Tổ thường được xây trên nhứng vách đá. Chim cái thường đẻ một trứng và ấp trong 50 ngày. Sau khi nở chim con đượcbố mẹ chăm sóc 56 ngày. Loài chim này cũng có quan hệ chung thủy cả đời.
 
Chim Antarctic Petrel
Số lượng loài này chưa được thống kê cụ thể, ước chừng tầm khoảng từ 500.000 đến 20 triệu cá thể. Chúng được thấy đậu ở những tảng băng trôi bao
quanh bờ biển Châu Nam Cực. Trong những tháng mùa đông, chúng có thể tiến đến tọa độ 48oS. Chim Antarctic Petrel có sải cánh lên tới 110cm và nặng tầm 675g. Bộ lông trắng ở phần dưới với một chút nâu ở dìa mép cánh. Phía trên lưng thì màu nâu tối và đuôi thì trắng vá có một dải nâu ở cuối đuôi. Loài chim này ăn mực, nhuyễn thể và cá trên bề mặt nước.
Chim trưởng thành bắt đầu sinh sản vào tháng 11. Tổ của nó được xây từ những hòn đá nhỏ trên vách đá. Chim cái đẻ một trứng và được ấp trong 45 ngày. Chim con mọc lông sau 45 ngày từ khi sinh. Cả bố và mẹ chăm sóc chim con và sống chung thủy với nhau đến trọn đời.
Chim Snow Petrel
Số lượng chưa được thống kê. Loài chim này sinh sản ở bờ biển và các đảo thuộc Châu Nam Cực. Kích thước của nó trung bình với sải cánh 96cm và cân nặng 550g. Chim Snow Petrel có đặc điểm khá dễ nhận ra đó là toàn bộ lông của nó màu trắng, có một cái mỏ đen và chân đen. Chúng ăn chủ yếu cá, mực và nhuyễn thể, đôi khi lặn xuống nước để bắt con mồi. Con trưởng thành đến quần thể sinh sản vào tháng 10 cho đến 11. Nơi đẻ trứng ở trên những vách đá ở những nơi có độ cao lớn nhưng nó không làm tổ.
Con cái đẻ một quả trứng và ấp trong 45 ngày, sau khi nở được cả chim bố và mẹ chăm sóc. Loài hải âu này cũng là loài sống chung thủy.
Chim Prions
Chim Prions có 6 loài sống ở biển phương nam nhưng thực sự rất khó phân biệt được 6 loài này khác nhau thế nào.
Nó sinh sản chủ yếu được thấy ở các Đảo như: South Georgia, South Sandwich Islands, South Orkney Islands, South Shetland Island, Iles Crozet, Iles Kerguelen, Heard Island, Macquarie Island, Auckland Island và Scott Island. Nó có sải cánh 17 – 20cm, thường tập trung bay cùng nhau, có lớp lông bụng màu trắng, nâu trắng trên mắt, phần phía trên từ hai bên cánh sang đến lưng có một vệt lông nâu xếp theo hình chữ M. Chúng tập trung sinh sản thành đàn lớn vào tầm tháng 10. Con cái đẻ 1 trứng và được ấp trong 50 ngày. Sau khi nở được cả bố mẹ chăm sóc cho đến 58 này.
Chim Storm Petrels
Chim Storm Petrels nằm trong họ Hydrobatidae của bộ chim Procellariiformes. Nó là loài chim biển bay nhỏ nhất và được chia làm 4 chi và 22 loài. Loài Wilson’s Storm Petrel được biết đến nhiều nhất và có số lượng cũng nhiều nhất ở Châu Nam Cực. 
Nó có bộ lông màu nâu và một nhỏm lông nhỏ màu trắng ở gần đuôi. Tất cả các thành viên trong loài chim này nặng không quá 60g với sải cảnh khônghơn 46cm. Nó có thể nhận ra bởi những nhóm nhỏ với chiếc mỏ sắc, chân dài. Không giống những loài chim Petrels lớn, chim Storm Petrels thường bay một cách lạ kỳ, chúng đặt chân xuống mặt nước, đập cánh một cách mạnh mẽ như những vũ công nhảy trên mặt nước để bắt nhuyễn thể nhỏ, cá và mực. Chúng sinh sản ở những đảo cận Châu Nam Cực trên những vách đá gần biển. Chim trưởng thành làm tổ sinh sản khi 4 đến 5 tuổi. Chim cái để 1 quả trứng màu trắng được ấp trong 50 ngày. Sau khi nở chim con được chim bố mẹ chăm sóc trong thời gian 60 ngày. Loài chim này cũng là loài chim sống chung thủy. Chim Mòng Biển là loài săn mồi chính của chim Sorm Petrels,
 
Chim Cốc
Việc phân loại chim cốc ở phương nam vẫn là đề tài tranh luận của các nhà khoa học bởi vì nhìn chúng rất giống nhau về vẻ bề ngoài. Họ Cốc với tên khoa học là Phalacrocoracidaelà một họ chim gồm khoảng 40 loài.
Có một số nhà điểu học đề xuất họ này gồm 3 chi và 36 loài, nhưng do chúng rất thuần nhất về hình thái học, thức ăn và hành vi. Vì lý do này mà 36 loài chim cốc được xếp vào một chi duy nhất là Phalacrocorax. Tên chim cốc tiếng Anh là cormorant được lấy từ nghĩa la tinh là loài quạ biển.
Chim cốc có kích thước trung bình và sống khắp trái đất ngoài trừ một số đảo Thái Bình Dương. Chim cốc có mỏ hình lưỡi câu, lưng đen và từ bụng lên hết cổ tới nửa đầu màu trắng, cổ hình chữ S và có mũi màu da cam trông như mào con gà trống. Hầu hết loài chim cốc trên trái đất không có lông chống thấm nước và thường được quan sát khi đậu trên những mỏm đá để hong khô lông sau khi săn mồi dưới mặt nước. Nhưng một số loài chim cốc ở biển phía nam thì tiến hóa có lông chống được nước để thích nghi với điều kiện thời tiết khắc nghiệt nơi đây.Chim cốc có quan hệ mật thiết với chim bồ nông, ó biển. Những loài chim này phát triển cơ thể thích nghi với việc săn mồi dưới nước và có thể lặn dưới nước sâu để săn con mồi. Nó có chân với màng rộng để đẩy nước khi lặn trong khi cánh ngắn để như mái chèo, cổ thon giúp nó tăng tốc độ và dễ dàng bắt con mồi. Ở biển phía nam, chim cốc là loài chim biết bay hiếm hoi mà chim cái đẻ 2 quả trứng. Nó là loài chim có một bạn tình trong một mùa sinh sản nhưng vào mùa sinh sản năm sau nó sẽ thay đổi bạn tình mỗi năm. Con đực tập hợp các vật liệu để làm tổ để chờ con cái đến để sinh đẻ.
 
Chim Cốc Châu Nam Cực ( Antarctic Comorant)
Số lượng ước ừng 22.000 con. Lẫn lộn so với các loài chim cốc khác là điều không thể bởi chỉ có loài chim cốc này mới sinh sản ở Bán Đảo Châu Nam Cực và đảo South Shetland không sống ở những vùng khác. Dáng vẻ bên ngoài của chúng như mặc một bộ tuxedo màu đen và trắng, đôi khi còn nhầm lẫn với chim cánh cụt khi ở khoảng cách xa quan sát và chỉ phân biệt được khi chúng bay. Chúng cao khoảng 75cm và nặng 3kg.
Con đực to hơn con cái, chúng có đôi mắt màu xanh và mũi màu da cam sáng với đôi chân màu hồng. Chim cốc Nam Cực chủ yếu ăn cá và mực, đôi khi là loài giáp xác và động vật không xương sống bằng cách lặn sâu nhất đến 70m dưới biển. Trong suốt thời gian sinh sản, con đực có múi màu chuyển sang màu cam sáng hơn, chúng đến nơi sinh sản vào tháng 10 hàng năm và đẻ hai hoặc 3 trứng màu hơi xanh trong cái tổ thường được làm từ rong biển.
Trứng được ấp trong 30 ngày. Chim con lớn nhanh và mọc lông trong tháng 3 ở 40 – 50 ngày tuổi. Nó được chăm sóc bởi cả bố và mẹ mà gắn kết với nhau chung thủy trong vòng 1 năm.
 
Chim Sheathbills
Chim Sheathbills nằm trong bộ Charadriiformes là một bộ chim rất lớn, bao gồm đến 350 loài như chim choi choi, chim dẽ giun, chim Mòng Biển, chim Cướp Biển, chim nhạn biển, chim Én Biển…Chim Sheathbills nằm trong gia đình chim Sheathbills với hai loại chim một có một diện mạo điển hình với một lớp lông màu trắng muốt toàn cơ thể với một lớp da màu hồng bao quanh mắt và chân không có màng và một loại nữa có mặt màu đen. Ước tính có khoàng 20.000 cá thể chim thường tập trung ở vùng Đảo South Shetland, Bán Đảo Nam Cực và Đảo South Georgia, đôi khi mở rộng lên phía bắc tiến tới gần Brazil ở tọa độ 65oS. Chim Snow Sheatbills giống như một chú chim bồ câu với kích thước cánh tầm 84cm và nặng 780g. Nó là loại chim ăn xác thối, sống ở những quần thể chim khác như chim cánh cụt, chim cốc để ăn xác những con vật này.

Ngoài ra chúng còn ăn trứng chim cánh cụt. Chúng bắt đầu làm tổ vào tháng 9 bằng lông và xương. Con cái để 2-3 trứng nàu hơi nâu và được ấp trong khoảng 30 ngày. Không phải tất cả chim non có thể tồn tại đến khi mọc lông sau khoảng 55 ngày từ ngày nở.
 
Chim Cướp Biển
Chim Cướp Biển có quan hệ mật thiết với chim Mòng Biển và nhạn biển, chúng đều thường được thấy với lớp lông màu xám. Không giống chim Mòng Biển, chim cái to hơn so với chim đực. Nó thường để 2 trứng được làm trên mặt đất. Loài này được biết đến là loài chim hung hăng không chỉ hay tranh giành lãnh thổ lúc sinh sản mà ngay cả lúc kiếm ăn ở những quần thể chim cánh cụt. Chim bố mẹ có thể sẽ oanh tạc cả con người nếu con người tiếp cận gần tổ chim, đây cũng là điều cần biết cho mỗi du khách khi thấy loài chim này. Chim Cướp Biển South Polar có số lượng ước chừng khoảng 10.000 – 16.000 con thường sống ở bờ biển Châu Nam Cực và Đảo South Shethland, tuynhiên vào tháng mùa đông chúng có thể tiến tới tận Alaska. Kích thước của Chim Cướp Biển South Polar với đôi cánh rộng 130 – 160cm và nặng 1.7kg. Lớp lông chim biến đổi rất nhanh từ sáng sang tối vì vậy khó phân biệt được đâu là chim Cướp Biển South Polar và đâu là chim Cướp Biển Nâu.
Chim Cướp Biển ăn thực đơn chính là cá nhưng chúng sẽ ăn những xác thối của những quần thể chim khác như chim cánh cụt. Nó cũng ăn trộm trứng và con của những con chim khác đặc biệt là chim cánh cụt. Con trưởng thành bắt đầu sinh sản vào tháng 10 hang năm, nó làm tổ trên đá gần những quần thể chim cánh cụt thể thiết lập lãnh thổ săn mồi.
Con cái đẻ một hoặc hai trứng được bao quanh bởi những viên sỏi và đất. Trứng được ấp 30 ngày, và chim con mọc lông sau khoảng 40 ngày.
 
Chim Mòng Biển và Én Biển
Có khoảng 56 loài chim Mòng Biển nhưng chỉ một loài được tìm thấy ở Châu nam Cực. Chim Mòng Biển có kích thước từ vừa đến lớn với lớp lông màu xám và trắng. Nó làm tổ gần những động vật ăn thịt để có cơ hội ăn xác thối như các loài hải cẩu.

Mòng Biển Kelp
Ước chừng có khoảng 1 triệu con và phân bố rộng rãi ở biển phía nam. Kích thước sải cánh của nó là 142cm và nặng 1.3kg. Mòng biển Kelp có thân màu trắng và cánh, lưng màu đen, chân và mỏ màu vàng, có một vài chấm đỏ ở trên mỏ. Chúng thường ăn trứng chim cánh cụt và con con chim cánh cụt, thêm vào đó chúng ăn xác cá voi hoặc xác các loài hải cẩu. Ăn nhuyễn thể là ít không nhiều. Chúng sinh sản bắt đầu vào tháng 12 và con cái đẻ 3 trứng được ấp trong 30 ngày. Chim con được chăm sóc đến 50
ngày trước khi mọc lông.
 
Chim Én Biển Nam Cực
Số lượng ước chừng khoảng 100.000 cá thể. Sống chủ yếu ở vùng biển phía nam. Sải cách tới 80cm và cân nặng 200g. Cơ thể được bao phủ bởi lớp lông màu trắng nâu, mỏ và chân màu đỏ, phía trên đỉnh đầu màu đen. Chim chủ yếu ăn cá và nhuyễn thể.
Chúng bắt đầu sinh sản vào tháng 10, chim cái để 1 đến 2 trứng và được ấp đến 25 ngày, chim con mọc lông sau khoảng 30 ngày sau khi nở.