CÁC LOẠI ĐỘNG VẬT ĐIỂN HÌNH Ở VÙNG BẮC CỰC VÀ BẮC CỰC 
      Vì vùng Bắc Cực và Bắc Cực là phần nằm xa nhất về phía bắc của Trái Đất và là nơi thiếu ánh sáng Mặt Trời, nhân tố quyết định cho sự sống chưa kể vào mùa đông, hiếm khi nào nhiệt độ vượt mức 0oC vào mùa đông nhưng động vật nơi đây lại khá phong phú.
      Động vật vùng Bắc Cực có những thói quen để thích ứng với mùa đông lạnh giá. Nhiều loài di cư vế phía nam của những dài băng, một số di cư đến vùng cận nhiệt đới trong khi một số khác tập trung xung quanh những vùng nước mở nơi thức ăn vẫn còn. Đặc biệt có một số loài vật có khả năng ngủ đông trong điều kiện nhiệt độ cơ thể xuống thấp, thở chậm, tim đập chậm, trao đổi chất chậm. Chỉ một số loài động vật Bắc Cực có thể chìm trong giấc ngủ đông sâu như sóc, con marmot, sóc chuột, gấu đen Mỹ, gấu nâu, gấu trắng bắc cực có thai. 
 
 
1. Polar Bear – Gấu Bắc Cực 
‘Vua của Bắc Cực’ - còn được người dân địa phương gọi là Isbjørn hoặc “Gấu Băng” là loài động vật nổi tiếng nhất ở Bắc Cực và thường là động lực thúc đẩy du khách đến thăm Vùng Bắc Cực. Có hàng trăm con Gấu Bắc Cực ở Svalbard, hầu hết được nhìn thấy ở các phần phía bắc của quần đảo và trên các đảo bờ biển phía đông. Chúng là những kẻ săn mồi tự nhiên và bơi thành thạo, đồng thời săn mồi trên đất liền và dưới biển. Thực đơn chính của Gấu Trắng Bắc Cực đó hải cẩu mặc dù chúng sẽ nhai thức ăn khác nếu có từ xác cá voi đến trứng chim. Du khách được nhìn thấy một con Gấu Trắng Bắc Cực trong tự nhiên là một trong những trải nghiệm thú vị nhất khi đến Svalbard.
 
2. Walrus – Hải Tượng
Hải Tượng từng bị săn bắt đến mức gần như tuyệt chủng nhưng ngày nay chúng là loài được bảo vệ. Hiện có hàng nghìn con Hải Tượng phân bố rải rác trên Quần Đảo Svalbard nên du khách có cơ hội tốt để nhìn thấy. Hầu hết những con Hải Tượng có thể nhìn thấy trên Svalbard là những con đực trưởng thành hoàn toàn với trọng lượng lên tới 1700kg. Các loài động vật có vú có ngà có xu hướng tụ tập thành các nhóm lớn và thường có thể được nhìn thấy đang nằm trên đất liền sau khi tìm kiếm thức ăn dưới đáy biển. Các loài động vật có vú ở biển là những tay bơi cừ khôi và có thể di chuyển nhanh một cách đáng kinh ngạc.
 
3. Arctic Fox  - Cáo Bắc Cực
Trong khi Cáo Bắc Cực đang bị đe dọa ở Na Uy, thì ở  Quần Đảo Svalbard, chúng đang sinh sống nhiều hơn và thường xuất hiện trên các đường bờ biển xung quanh quần đảo, nơi chúng săn các loài chim. Chúng còn được gọi là "cáo trắng", "cáo bắc cực" hoặc "cáo tuyết". Kích thước tương tự như một con cáo thông thường, chúng có một bộ lông màu trắng thay đổi tông màu theo mùa - từ màu xanh lam sang màu vàng hơn. Chúng cực kỳ kiên cường và có thể tồn tại ở nhiệt độ thấp tới âm 50 độ C, sống trong hang và đào hầm trong tuyết để trú ẩn. Cáo Bắc Cực cái sinh đẻ vào mùa xuân với mỗi lứa khoảng 14 con
 
4. Bearded seal – Hải Cẩu Râu
Động vật hoang dã ở Svalbard không chỉ giới hạn trong đất liền. Hải Cẩu Râu là loài lớn nhất trong số hải cẩu cư trú ở Svalbard, hải cẩu cái có râu mọc đầy đủ có thể nặng tới 425kg (con đực thấp hơn một chút là 300kg). Nó là họ hàng của Hải cẩu Xám và Hải cẩu Đàn Hạc. Hải Cẩu Râu có xu hướng cư trú ở những vùng nước nông và trên băng trôi. Còn được gọi là 'Hải Cẩu Lật Vuông', Hải Cẩu Râu được đặt tên như vậy do có nhiều râu giúp nó săn cá và động vật giáp xác dưới đáy đại dương. Chúng có những nghi thức giao phối riêng biệt và tiếng kêu của Hải Cẩu Râu đực có thể nghe được ở cách xa tới 20 km.
 
5. Svalbard Reindeer – Tuần Lộc Svalbard
Đúng như tên gọi, đây là một loại tuần lộc có nguồn gốc từ Svalbard trong 5.000 năm qua. Chúng rất phổ biến trên quần đảo và du khách có cơ hội thực sự tốt để nhìn thấy chúng trong chuyến đi của mình. Nó có một cái đầu nhỏ, cổ và chân ngắn và bộ lông dày mùa đông giúp nó khác biệt với những con hươu khác. Chúng có thể được nhìn thấy trên khắp quần đảo, bao gồm cả trong và gần các khu định cư. Giống như một số loài động vật địa phương khác, chúng đã bị săn bắt quá mức đến mức gần như tuyệt chủng vào đầu thế kỷ 20 nhưng quần thể hiện đang phát triển mạnh với ước tính khoảng 22.000 con ở Svalbard ngày nay. Một trong nhiều điểm nổi bật về động vật hoang dã ở Svalbard.
 
6. Humpback whale – Cá Voi Lưng Gù 
Một trong những loài cá voi lớn hơn, cá voi lưng gù có chiều dài lên tới 50  feet (hơn 15m) và nặng hơn 40 tấn. Chúng có một cái bướu nhỏ phía trước vây lưng và một chiếc vây đuôi khổng lồ, giúp chúng có thể di chuyển tới 16.000 dặm một năm để kiếm thức ăn là các loài cá nhỏ và nhuyễn thể ở vùng biển cực và hướng đến vùng khí hậu nhiệt đới để sinh sản. Từng bị săn đuổi đến bờ vực tuyệt chủng, cá voi lưng gù hiện được tìm thấy ở mọi đại dương trên thế giới và thường xuyên ở vùng biển Bắc Cực xung quanh Svalbard. Chúng được biết đến với những âm thanh như bài hát kỳ diệu do chúng phát ra kéo dài hàng giờ liên tục mà nhiều nhà khoa học đã cố gắng giải mã.
 
7. Little Auk – Chim Anca Nhỏ
Là loài nhỏ nhất trong số các loài chim AncaChâu Âu, Chim Anca nhỏ hay ‘chim bồ câu biển’ có kích thước tương tự như chim Sáo Đá và dành mùa hè ở Svalbard trước khi trú đông ở Bắc Đại Tây Dương. Chúng đi theo nhóm rất lớn và dàn đồng ca bầy đàn của chúng khá ấn tượng. Ước tính có khoảng 1 triệu Chim Anca nhỏ ở Svalbard vào mùa hè, với hơn 200 quần thể được xác định trên khắp các phần tây bắc và tây nam của Spitsbergen.
 
8. Kỳ lân biển
Kỳ lân biển là động vật biển có kích cỡ trung bình, sống quanh năm ở vùng Bắc Cực. Điểm đặc biệt của loài động vật này là các con được có một chiếc sừng dài, thẳng, có rãnh xoắn ở phía trên hàm trái. Được biết, chiếc sừng “siêu độc” này có mục đích giúp kỳ lân biển chiến đấu với đối thủ cũng như gây ấn tượng với con cái trong mùa giao phối.
 
9. Linh miêu Canada
Linh miêu Canada sinh sống ở vùng cực Bắc là loài linh miêu lớn thứ 2 trên thế giới (sau Linh Miêu Á-Âu) thuộc chi Linh Miêu trong họ nhà mèo. Nhờ vào những chiếc chân dài, chúng có thể dễ dàng di chuyển trong khu vực tuyết phủ dày để săn mồi. Cũng giống như cáo Bắc Cực, linh miêu Canada cũng có thể thay đổi màu sắc lông (màu trắng vào mùa đông, nâu vào mùa hè) để dễ dàng ngụy trang khi đi săn mồi. Được biết, con mồi chủ yếu của loài động vậy này là thỏ rừng.
 
10. Bò xạ hương
Bò xạ hương sống trong vùng lãnh nguyên của Bắc Cực lạnh giá. Nhờ vào bộ lông dày có 2 lớp (lớp ngoài dài, lớp trong ngắn), chúng đã dễ dàng sinh sống và tìm kiếm thức ăn trong cái lạnh khắc nghiệt, bão tuyết ở nơi đây. Được biết, thức ăn chủ yếu của bò xạ hương là cỏ và rêu. Thế nhưng, vào mùa đông, khi thức ăn bị chôn vùi trong tuyết, chúng phải dùng móng guốc để đào rễ cây, cỏ khô để duy trì sự sống cho tấm thân nặng hơn 370kg.
 
11. Cú tuyết
Cú tuyết là một loài cú lớn thuộc họ Cú mèo, sinh sống chủ yếu ở vùng cực Bắc. Thị lực và thính giác cực tốt đã giúp loài chim lớn này có thể săn mồi trong các vùng tuyết phủ dày. Được biết, thức ăn của chúng là chuột, chim nhỏ, thỏ rừng.
 
12. Thỏ Bắc Cực
Nhờ vào bộ lông dày, thỏ rừng Bắc Cực mới có thể sinh sống được ở vùng Bắc Cực lạnh giá và khắc nghiệt. Vì luôn bị các loài săn mồi khác săn đuổi, nên chúng cũng có thể thay đổi màu lông (trắng vào mùa đông, xám vào mùa hè) để ẩn mình trong tuyết hoặc cỏ khô để ngụy trang.
 
13. Puffin – Hải Âu Cổ Rụt
Svalbard là ngôi nhà ở cực bắc của Hải Âu Cổ Rụt Đại Tây Dương. Còn được gọi là 'vẹt biển', Hải Âu Cổ Rụt là loài chim biển nhỏ màu đen và trắng với mỏ rất sặc sỡ có màu cam sáng và màu xám. Nó được coi là một loài dễ bị tổn thương và thật khó để biết có bao nhiêu con hiện đang sống ở Svalbard, nhưng ước tính cho thấy có khoảng 10 nghìn cặp chim Hải Âu Cổ Rụt thuộc 15 quần thể sống ở đây. Mỗi cặp sẽ sinh ra một quả trứng duy nhất. Chúng dành phần lớn cuộc đời trên biển, săn bắt cá và chỉ tìm đến vùng đất khô cằn để sinh sản và nuôi con. Những con chim mái thường sẽ quay trở lại đàn nơi chúng nở ra để làm điều này.
 
14. Beluga Whale – Cá Voi Trắng
Cá voi trắng là một trong 2 thành viên nhỏ nhất trong họ cá voi, phân bố không liên tục ở quanh khu vực Bắc Cực và tiểu vùng biển Bắc Cực từ 50-80 độ Bắc, đặc biệt là dọc theo bờ biển của Alaska, Canada, Greenland và Nga. Màu trắng tuyệt đẹp và chiếc trán tròn trĩnh chính là đặc điểm phân biệt chúng với các loài cá voi khác. Du khách có cơ hội tốt đển gắm nhìn Con Cá Voi Trắng ( hay được gọi với tên Chim Yến Biển)  có vẻ ngoài độc đáo này ở Svalbard.  Chúng rất hòa đồng và luôn bơi cùng nhau không xa đất liền. Cá Voi Trắng là một trong những loài cá voi nhỏ nhất, dài 13-20 feet và nặng từ 1 đến 1,5 tấn. Chúng bắt đầu có màu hơi xám, sau đó chuyển sang màu trắng vào khoảng 7 tuổi đối với con cái, vài năm sau đối với con đực. Chúng xuất hiện phổ biến trong các vườn thú và bể cá nhưng tuyệt vời hơn khi du khách có thể nhìn thấy chúng ngoài môi trường sống tự nhiên của chúng.
 
15. Svalbard Rock Ptarmigan – Gà Gô Đá Svalbard
Gà Gô Đá là loài chim sống trên mặt đất lớn nhất và duy nhất ở Svalbard quanh năm và nó có thể được nhìn thấy trên khắp quần đảo. Chúng có tính lãnh thổ rất cao với việc gà trống thiết lập không gian làm tổ vào mùa xuân, bảo vệ nó bằng cách đánh lạc hướng và tiếng kêu. Không lâu sau đó, những con gà mái cái đẻ trứng trong khu vực thường khoảng 10 con trong 21 ngày. Gà con học bay chỉ sau 10 - 12 ngày nhưng bám mẹ trong 10-12 tuần nữa. Chúng cũng bị con người săn bắt để làm thức ăn nhưng có giới hạn nghiêm ngặt để duy trì số lượng ổn định và săn bắt gà được giới hạn trong ba tháng mỗi năm.
 
16. Guillemot – Chim Guillemot
Svalbard là quê hương của hai loại Chim Guillemot là Chim Guiilemot Thường và Chim Guillemot Brunnich. Cả hai đều có phần trên màu sẫm và phần dưới màu trắng nhưng mỏ của chim Guillemot Thường dài hơn và mỏng hơn. Chúng làm tổ trên hoặc gần các mặt vách đá và dành phần đời còn lại trên biển. Chúng có thể linh hoạt dưới nước tốt hơn nhiều so với trên không. Có vực sinh sản quan trọng cho các loài chim Guildlemots Thường như Alkefjellet – “ ngọn núi của các Guillemot” .
 
17. Red-Throated Diver  - Chim Lặn Cổ Họng Đỏ
Nơi sinh sống phổ biến của loài chim này là ở các hồ, ao và các khu vực ven biển được bao quanh bởi những vách núi. Chim Lặn Cổ Họng Đỏ có thể nhìn thấy khi bay với màu đỏ vào mùa hè. Chúng nhảy lên để lặn dưới nước, nơi chúng có thể ở lại trong tối đa một phút rưỡi mỗi lần. Chim Lặn Cổ Họng Đỏ là loài chim di cư đến Svalbard làm tổ vào mùa hè  từ tháng 5 đến tháng 10 và di cư về phía nam vào mùa đông. Du khách có thể nghe thấy tiếng của nó trước khi nhìn thấy nó, tiếng kêu nghe hơi giống tiếng mèo kêu mà chúng thường sử dụng trong khi bay.
 
18. Barnacle Goose – Ngỗng Đen Má Trắng
Hơn 30.000 con Ngỗng Đen Má Trắng đến Quần Đảo Svalbard vào tháng 5 từ lục địa Na Uy và rời đi vào tháng 8 hoặc tháng 9 để đi về phía nam đến nơi có khí hậu ấm hơn. Chúng có đầu và cổ màu đen, mặt trắng, bay theo đàn, khá ồn ào. Ngỗng Đen Má Trắng xây tổ cao trên mặt vách đá, tránh xa những kẻ săn mồi tự nhiên nhưng ngỗng con được đưa xuống bờ để kiếm ăn - nghĩa là khoảng một nửa sẽ chết vì ngã và trong nanh vuốt của cáo Bắc Cực và gấu Bắc Cực. 100 năm trước, chỉ có 300 con Ngỗng Đen Má Trắng ở Svalbard vì vậy đây là một trong những câu chuyện thành công thực sự về bảo tồn động vật hoang dã ở quần đảo Svalbard.
 
19. Ringed Seal – Hải Cẩu Đeo Nhẫn
Hải Cẩu Đeo Nhẫn được nhận ra bằng vẻ ngoài với bộ lông có những đốm đen và vòng màu xám nhạt. Đây là loài hải cẩu phổ biến nhất được phát hiện ở Svalbard và là loài hải cẩu nhỏ nhất, chúng hiếm khi dài hơn 1,5m. Hải cẩu đeo nhẫn sống một cuộc sống đơn độc và thường được nhìn thấy một mình. Chúng có thể sống tới 30 năm nếu gặp may, mặc dù chúng là con mồi chính của gấu Bắc Cực, cá mập và cá voi.
 
20. Snow Bunting – Chim Sẻ Tuyết
Chim Sẻ Tuyết là loài chim biết hót duy nhất ở Svalbard và có thể được nhìn thấy, nghe thấy từ tháng 4 đến tháng 9. Sau đó nó đi về phía nam đến Nga và một số địa điểm khác ở châu Âu vào mùa đông. Nó là loài chim có số lượng di cư về phương Bắc nhiều nhất trên thế giới. Bộ lông của chúng thay đổi từ màu đen và trắng tương phản vào mùa hè sang màu cát nhiều hơn vào mùa đông. Những con đực sẽ bắt đầu hót ngay khi chúng đến gần khu vực sinh sản và chỉ dừng lại khi chúng đã có bạn tình. 
 
21. Blue Whale – Cá Voi Xanh
Từng bị săn đuổi đến bờ vực tuyệt chủng, cá voi xanh vẫn là loài có nguy cơ tuyệt chủng nhưng đã được nhìn thấy ngoài khơi bờ biển Svalbard. Cá voi xanh là loài động vật lớn nhất từng sống trên trái đất và có thể dài tới 100 feet và nặng tới 200 tấn. Chỉ riêng chiếc lưỡi của nó đã nặng bằng một con voi và trái tim của nó có kích thước bằng một chiếc ô tô. Chúng có thể ăn tới 4 tấn Nhuyễn Thể mỗi ngày và có thể thổi nước từ lỗ thổi lên độ cao hơn 12 mét. Sóng siêu âm tần số thấp của chúng có thể được nghe trong hàng trăm dặm ( có một số nghiên cứu chỉ ra nó có thể vang nửa vòng trải đất) và được sử dụng để giao tiếp với những con cá voi xanh khác.
 
22. Fin Whale – Cá Voi Vây
Trước đây được gọi là cá voi Trích hoặc cá voi Lưng Dao Cạ. Cá Voi Vây có một đường gờ khác biệt dọc theo lưng phía sau vây lưng và là loài lớn thứ hai trên trái đất sau cá voi Xanh. Nó dài tới khoảng 85 feet, nhưng nặng khoảng 170 tấn và có thể sống tới 100 năm. Cá Voi Vây có thân hình dài với hàm dưới bên phải màu trắng và hàm dưới bên trái màu đen. Chúng bơi nhanh và thường được phát hiện theo nhóm từ 2 đến 7 cá thể. Nơi tốt nhất để phát hiện chúng ở Svalbard là ngoài khơi bờ biển phía tây Spitsbergen.
 
23. Common Eider – Vịt Nhung Thường
Vịt Nhung Thường là một loài vịt biển lớn có thân dài từ 50 –71 cm phân bố khắp bờ biển phía bắc châu Âu, Bắc Mỹ và đông Siberia. Nó sinh sản ở Vùng Bắc Cực và một vài khu vực ôn đới phía bắc khác nhưng di cư về phía nam ở các vùng ôn đới, nơi nó hình thành hàng đàn lớn ở các vùng biển duyên hải. Nó có thể bay với tốc độ lên đến 113 km/h . Tổ Vịt Nhung Thường được làm ở gần biển và với lông nhổ ra từ ức con mái. Lông mềm này được con người thu hoạch nhưng không gây hại nhiều cho tổ vịt, lông này để làm chăn và gối do có những đặc tính giữ ấm và bền. Chúng là loài bay nhanh nhẹn và linh hoạt ở dưới nước, lặn xuống biển để ăn động vật giáp xác và động vật thân mềm, đồng thời chúng cũng là con mồi cho cáo Bắc Cực và gấu Bắc Cực. Svalbard là nơi sinh sống của hàng chục nghìn loài Vịt Nhung Thường trong những tháng mùa hè, dày đặc có thể nhìn thấy ở bờ biển phía tây, phía bắc và ở Tusenøyane. 
 
24. Black-Legged Kittiwake - Mòng Biển Rissa Chân Đen
Mòng Biển Rissa Chân Đen: là một trong những loài chim phổ biến nhất ở Svalbard với quy mô hơn nửa triệu con và trải rộng trong hơn 200 quần thể ở Quần Đảo Svalbard. Mòng Biển Rissa Chân Đen được đặt tên theo màu sắc của chân nó. Và cách gọi riêng biệt nghe hơi giống 'kitte-waaik'. Chúng có xu hướng ở gần biển và các vách đá. Chúng rất duyên dáng khi bay mặc dù có thể do chúng chỉ có ba ngón chân.
 
25. Arctic Skua – Chim Cướp Biển Bắc Cực
Cùng với Nhàn biển Bắc Cực, Chim Cướp Biển Bắc Cực là loài chim hung dữ sẽ không ngần ngại tấn công bất cứ thứ gì mà chúng cảm thấy bị đe dọa kể cả con người. Chúng là loài chim bay xuất sắc, sà xuống thấp và nhanh chóng để truy đuổi các loài chim khác để ăn trộm thức ăn và tất nhiên chúng có thể tự săn bắt cá. Chúng cũng sẽ ăn trứng và các loài chim non khác, ăn thịt các động vật có vú đã chết. Chúng có thể được nhìn thấy ở Svalbard trong những tháng mùa hè và đi về phía nam đến lục địa Châu Âu vào mùa đông.
 
26. Northern Fulmar – Chim Hải Âu Fulmar Phương Bắc 
Hải âu Fulmar phương Bắc sinh sống chủ yếu tại các vùng biển phía Bắc Đại Tây Dương và Thái Bình Dương.Chim Hải Âu Fulmar Phương Bắc là một loại chim biển có bộ lông màu xám và trắng. Chúng là một loài khá hiền lành và dễ thương khi còn bé. Chúng chỉ được coi là trưởng thành khi mọc lông và có thể bay cùng với đàn. Nếu không có cha mẹ bảo vệ, các chim con rất dễ bị tấn công bởi vô số loài như sóc, cáo, chuột...Thế là chúng sinh ra một cơ chế bảo vệ rất đặc biệt là khạc đờm. Trong dạ dày mấy con Chim Hải Âu Fulmar Phương Bắc con có một loại dịch vàng rất thúi, nhầy nhụa. Chỉ cần thấy có mùi nguy hiểm là chúng bắt đầu khạc loại dịch này ra như súng tiểu liên. Con nào xấu số dính phải không chết vì mùi hôi thì cũng bị choáng và mấy con Hải Âu Fulmar con sẽ tranh thủ thời cơ ra mổ. Tuy nhiên, bãi nôn của loài hải âu này lại có mùi cá chết vô cùng khó chịu, đồng thời làm dính lông khiến nạn nhân của chúng không bay nổi. Không chỉ vậy, khi nạn nhân của hải âu đáp xuống nước, chúng sẽ chết chìm vì chất nôn đã vô hiệu hóa chức năng phao cứu sinh của bộ lông.
 
27. Pink - Footed Goose – Ngỗng Chân Hồng
Ngỗng Chân Hồng là loài lớn nhất trong ba loài ngỗng làm tổ ở Svalbard. Nó có bộ lông màu nâu xám và nhìn chung giống với ngỗng Đậu nhỏ nhưng Ngỗng Chân Hồng có cổ và mỏ ngắn hơn, chân màu hồng. Ngỗng Chân Hồng có kích thước  trung bình dài 60-75 cm, nặng 2,2-3,5 kg với cổ tương đối ngắn. Chân màu hồng có thể khó nhìn thấy ở khoảng cách xa hoặc trong điều kiện ánh sáng kém. Ngỗng Chân Hồng sinh sản chủ yếu ở miền trung Iceland và với số lượng ít hơn dọc theo bờ biển phía đông Greenland. Nhiều ngàn con chim không sinh sản di cư từ Iceland đến đông bắc Greenland để thay lông.  
 
28. King Eider – Vịt Nhung Vua
Vịt Nhung Vua sống ở Bắc Bán Cầu, Vùng Bắc Cực, bờ biển phía Đông Bắc Châu Âu , Bắc Mỹ và châu Á . Loài chim này dành phần lớn thời gian trong năm trong các hệ sinh thái biển ven biển ở vĩ độ cao và di cư đến lãnh nguyên Bắc Cực để sinh sản vào tháng 6 và tháng 7. Chúng đẻ từ 4 đến 7 quả trứng trên mặt đất có lót cỏ và lông tơ. Vịt Nhung Vua là một loài vịt biển lớn, có chiều dài 50– 70 cm với sải cánh dài 86–102 cm. Con đực trung bình nặng hơn con cái, với trọng lượng trung bình là 1,668 kg đối với con đực và 1,567 kg đối với con cái. Khối lượng của một cá thể chim có thể thay đổi đáng kể theo từng mùa từ nhỏ nhất là 0,9 kg đến nặng nhất là 2,2 kg. Giống như tất cả các loài Vịt Nhung khác, loài này có giới tính lưỡng hình. Con đực lớn hơn một chút trong bộ lông sinh sản, màu sắc sặc sỡ hơn nhiều so với con cái. Con đực không thể nhầm lẫn với cơ thể chủ yếu là màu đen, bộ ngực trắng pha chút lông và cái đầu nhiều màu. Đầu, gáy và cổ có màu xám xanh nhạt. Má có màu xanh nhạt. Con cái có màu nâu ấm về tổng thể, hơi nhạt màu trên đầu và cổ. Những chiếc lông ở phần trên và hai bên sườn của con cái được đánh dấu bằng những chiếc chevron màu đen. Con cái có một đốm sáng màu và một vòng mắt màu trắng đục kéo dài thành một đường sọc cong xuống phía sau mắt. Chim non có màu nâu xám. Vào cuối mùa thu đầu tiên của chúng, những con đực non lột xác thành một bộ lông sẫm màu hơn với màu trắng trên ngực và phần mông. Chúng phải mất ba năm để đạt được bộ lông trưởng thành hoàn chỉnh
 
29. Long-Tailed Duck : Vịt Đuôi Dài
Vịt Đuôi Dài sống trong vùng lãnh nguyên và rừng Taiga ở Vùng Bắc Cực vào mùa hè và mùa đông dọc theo bờ biển phía bắc của Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Vịt đuôi dài là một loài vịt biển nhỏ, mảnh mai, đầu tròn và mỏ nhỏ. Con đực trong mùa đông chủ yếu có màu trắng và đen, đầu màu trắng với một mảng sẫm màu lớn trên cổ. Ngực và thân có màu sẫm với những chùm lông trắng bao phủ phía sau. Con cái và con đực có màu nâu loang lổ trên cơ thể với khuôn mặt trắng, vương miện và má màu nâu, mỏ sẫm màu. Chúng là loài Vịt phong phú nhất ở vùng cao Bắc Cực. Những đàn lớn thường ở ngoài biển xa. Nhiều con dành cả mùa đông trên các vùng biển phía bắc như Biển Bering, Vịnh Hudson và Great Lake. Tiếng kêu hay hơn nhiều so với hầu hết các loài vịt khác và có thể nghe thấy tiếng gọi du dương của đàn từ xa. Chúng kiếm ăn bằng cách lặn và bơi dưới nước với đôi cánh mở ra một phần nhưng đẩy chủ yếu bằng chân. Chủ yếu được nhìn thấy trên mặt nước nơi nó là một vận động viên bơi lội mạnh mẽ và một thợ lặn đích thực. 
 
30.  Ringed Plover – Chim Choi Choi Vòng
Chim Choi Choi là một loài chim lội nước nhỏ, mập mạp, chân ngắn. Nó có màu xám nâu ở trên và màu trắng ở dưới. Nó có mỏ màu cam, có chân màu cam và hoa văn đen trắng trên đầu và ngực. Chúng sinh sản trên các bãi biển xung quanh bờ biển hoặc đôi khi trong đất liền ở các hố cát và sỏi. 
 
31. Purple Sandpiper – Chim Dẽ Tía
Chim Dẽ Tía là một loài chim biển nhỏ, đầy đặn với mỏ dài, hơi rủ xuống và đôi chân khá dài so với kích thước của nó. Con trưởng thành có chân ngắn màu vàng và mỏ dài sẫm màu với phần gốc màu vàng. Phần thân có màu sẫm phía trên với một chút bóng hơi tía và bên dưới chủ yếu là màu trắng. Ngực có màu xám và phần mông có màu xám đen. Chúng có chiều dài 20–22 cm và 42– 46 cm trên cánh, trọng lượng từ 50-105g. Kiếm ăn chủ yếu ở các bờ biển đá, nơi nó ăn các động vật không xương sống hoặc dọc theo bờ biển giữa các đám tảo hoặc rong biển.
 
32. Ruddy Turnstone – Chim Dẽ Khoang Ruddy
Chim Dẽ Khoang Ruddy là một loài chim nhỏ lội nước. Nó là một loài chim khá nhỏ và chắc, dài 22–24 cm với sải cánh dài 50–57 cm, trọng lượng 85– 150g. Chân 3,5 cm và có màu cam sáng. Trong tất cả các mùa, bộ lông chủ yếu có họa tiết đen và trắng, da cam đan xen nhau. Đầu chủ yếu là màu trắng với các vệt đen trên đỉnh và một hoa văn màu đen trên mặt. Ngực chủ yếu có màu đen ngoài một mảng trắng ở hai bên. Phần còn lại của phần dưới có màu trắng. Chim Dẽ Khoang Ruddy có tiếng kêu báo động ríu rít chủ yếu được phát ra trong mùa sinh sản.
 
33. Long - Tailed Skua: Chim Cướp Biển Đuôi Dài
Chim Cướp Biển Đuôi Dàilà loài Chim Cướp Biển nhỏ nhất. Nó sở hữu đôi cánh mỏng và những dải đuôi dài mỏng manh với màu xám ở trên và xám xịt ở dưới với bầu ngực nhợt nhạt. Nó có một chiếc mũ sẫm màu trên đầu và có một cái mỏ sẫm màu. Loài này không thể nhầm lẫn khi trưởng thành với lưng màu xám, lông cánh sẫm màu và đuôi rất dài. Chúng mảnh mai hơn, có cánh dài hơn và giống Nhạn biển hơn các loài chim cướp biển khác. Nó có kích thước 38–58 cm tùy thuộc vào mùa và tuổi. Tuy nhiên, chiều dài của nó lên tới 29 cm tính từ cuối đuôi đến mỏ với những sợi đuôi dài 15 cm của con trưởng thành vào mùa hè. Sải cánh của loài này dài từ 102 đến 117 cm và khối lượng cơ thể là 230–444 g. Chúng ăn động vật có vú nhỏ, cá nhỏ, nội tạng và xác động vật. 
 
34. Great Skua – Chim Cướp Biển Lớn
Chim Cướp Biển Lớn là một loài chim cướp biển lớn màu nâu sẫm. Khi bay nó giống một con Mòng biển lớn. Chúng là loài Chim Cướp Biển lớn nhất 50-58 cm, nặng 1,2-1,8 kg, sải cánh 1,3m và có bộ lông ngụy trang màu nâu, khá đồng đều. Các mảng trắng duy nhất nằm ở mặt dưới của cánh do đó chỉ có thể nhìn thấy khi bay. Với đôi cánh rộng và chiếc mỏ khỏe, có một đầu hơi cong, nó giống như một con chim săn mồi. Tuổi thọ trung bình: 15 năm, nó là một tên cướp biển hung hãn, cố tình quấy rối những con chim lớn để cướp một bữa ăn miễn phí. Nó cũng dễ dàng giết và ăn thịt các loài chim nhỏ hơn. Những Con Chim Cướp Biển Lớn tỏ ra ít sợ hãi con người, bất kỳ ai đến gần tổ sẽ bị con trưởng thành giận dữ chiến đấu liên tục. Nó có phạm vi sinh sản ở phía đông bắc Đại Tây Dương như Quần đảo Anh đến Faroes, Iceland, Na Uy và Svalbard.
 
35. Glaucous Gull – Mòng Biển Glaucous
Mòng Biển Glaucous có chiều dài: 70 cm, trọng lượng: 1 đến 1,5 kg. Mòng biển Glaucous là loại Mòng biển lớn duy nhất được tìm thấy ở vùng cao nhất của  Vùng Bắc Cực. Ngoại hình nó gồm đầu, bụng và thân hình màu trắng với mỏ màu vàng. Khi kiếm ăn dưới nước, chúng không phải là thợ lặn thường thích chộp lấy thức ăn từ ngay dưới bề mặt. Chúng cũng sẽ tấn công các loài chim khác nhằm đánh cắp đồ ăn của chúng. Ngoài mùa giao phối, đôi khi chúng sẽ kết hợp với các đàn chim khác như Mòng biển Mòng biển Cá Trích...Mòng biển Glaucous có thể bay với tốc độ lên tới 65 km một giờ.
 
36. Great Black Head Gull: Mòng Biển Đầu Đen Lớn
Mòng Biển Đầu Đen Lớn sinh sống ở vùng ven biển châu Âu, Bắc Mỹ và các hòn đảo ở Bắc Đại Tây Dương. Chúng có cơ thể dài gần 80 cm, sải cánh lên tới 1,5 - 1,7 mét và cân nặng 1,3 - 2,3 kg. Trông chúng khá bề thế và có chiếc mỏ rất khỏe. Con trưởng thành có lông cánh và lưng xám. Đôi chân và mỏ có màu hồng. Tuổi thọ cao nhất trong tự nhiên của loài này là 27 năm. Loài không có xu hướng di trú theo mùa nhưng một số cá thể đã thực hiện các chuyến hành trình vào sâu trong lục địa hoặc xuống phía Nam đến những khu vực có các hồ lớn. Loài này là loài săn mồi cơ hội tức là một phần đáng kể lượng thức ăn của chúng chính là các thực phẩm thừa mà những loài vật khác chưa tiêu thụ hết. Một phần đáng kể khác có được qua việc săn bắt cá. Tuy nhiên, trái với hầu hết các loài thuộc chi Mòng biển khác, chúng thực hiện việc săn mồi nhiều hơn và thường xuyên tấn công các con mồi có kích thước nhỏ hơn chúng, thể hiện đặc tính chim săn mồi nhiều hơn các loài mòng biển thông thường. Chúng không có vuốt sắc nhọn và mỏ khoằm, sắc bén như các loài chim săn mồi khác vì vậy chúng chủ yếu dựa vào ưu thế thể lực, sức bền cũng như sự hung hăng trong việc săn, bắt và dồn con mồi vào thế không thể chống trả hay trốn thoát
 
37. Ivory Gull – Mòng Biền Ngà
Mòng Biển Ngà được coi là đẹp nhất trong các loài mòng biển ở Svalbard.  Thức ăn chủ yếu của loài này là xác động vật. Nó thường được thấy gần các lớp tuyết ở gần bữa ăn của gấu Bắc Cực, cũng như tại các bãi nuôi chó hoặc cống thoát nước thải trong các khu định cư. Số lượng của nó đang giảm ở Svalbard khi được ghi nhận số lượng thông qua các chương trình giám sát đã cho thấy mức giảm 80% kể từ những năm 1980. Mòng Biển Ngà làm tổ rải rác thành từng đàn trong nội địa Đảo Spitsbergen, trên Nordaustlandet và trên các đảo Kong Karls Land. Tổng cộng có 44 quần thể được biết đến. Thông qua nỗ lực chung của Nga - Na Uy để bảo vệ quần thể sinh sản vào năm 2006, Mòng Biển Ngà đã được giám sát bảo vệ tại 15 địa phương ở Svalbard và ước tính khoảng 200-250 cặp đang sinh sản. 
 
38. Arctic Tern – Chim Nhàn Bắc Cực
Nhàn Bắc Cực là loài động vật nhìn thấy ánh sáng mặt trời nhiều nhất trong thiên nhiên hoang dã. Bởi vì, vào mùa đông hàng năm, chúng phải di cư đến Nam Cực, vượt qua quãng đường 70.900km để tránh rét. Khi đến mùa xuân, chúng lại bay từ Nam Cực về Bắc Cực để sinh sản.
Nghiên cứu sử dụng các thiết bị theo dõi gắn vào những con chim đã được xuất bản vào tháng 1 năm 2010 và cho thấy rằng các ví dụ về đường bay dài ở trên thực tế không phải bất thường đối với loài chim này, 11 con nhàn Bắc Cực giao phối trong Greenland hoặc Iceland mỗi con bay 70.900 km trên trung bình trong một năm, với độ dài đường bay tối đa 81.600 km. Sự khác biệt từ ước tính trước đây là do loài nhàn này được tìm thấy bay vòng để tận dụng gió. Nhàn Bắc Cực sinh sống trung bình khoảng hai mươi năm, và sẽ bay trong suốt đời nó tổng cộng chiều dài 2,4 triệu km (1,5 triệu dặm). Nhàn Bắc Cực thường di chuyển ngoài khơi xa. Do đó, chúng hiếm khi được nhìn thấy từ đất bên ngoài mùa sinh sản.
 
39. Harp Seal – Hải Cẩu Đàn Hạc
Hải cẩu Đàn Hạc có chiều dài 1,7-2 mét. Cân nặng 120 đến 150 kg. Hải cẩu Đàn Hạc có bộ lông khác nhau trong cuộc đời. Khi mới sinh ra, chúng có một lớp lông mịn màu trắng. Ở tuổi thiếu niên, chúng có một bộ lông màu xám bạc có đốm đen. Chỉ khi trưởng thành, chúng mới có dấu hiệu đặc trưng của loài hạc đen. Chúng có thể ở dưới nước trong 15 phút. Bộ lông dày của chúng không chỉ giữ ấm mà còn là nguồn cung cấp dinh dưỡng khi nguồn thức ăn ít. 
Hải cẩu có đôi mắt to tương xứng cho chúng tầm nhìn tuyệt vời. Khi ở dưới nước, lỗ mũi của chúng đóng lại vì vậy chúng không thể ngửi thấy bất cứ thứ gì. Sau đó chúng sử dụng bộ râu rất nhạy cảm khi chạm hoặc cảm nhận được rung động do chuyển động của con mồi. Hải cẩu Đàn Hạc có thể lặn sâu tới 270 mét. Hải cẩu Đàn Hạc mẹ có thể nhận biết con non của chúng trong số hàng nghìn con khác trong đàn bằng mùi hương của chúng. Hải cẩu chỉ dành thời gian đáng kể trên cạn trong mùa giao phối và sinh nở. Phần còn lại của cuộc đời chúng ở dưới nước.
 
40. Hooded Seal – Hải Cẩu Mào
Hải Cẩu Mào có chiều dài 2 đến 2,5 mét, cân nặng 200 đến 300 kg. Chúng sống chủ yếu tại Bắc Đại Tây Dương và Bắc Băng Dương. Chúng có thể di cư đến tận phía nam Caribe ngoài mùa sinh sản. Hải Cẩu Mào thường ăn giáp xác, mực, cá, sao biển, trai. Hải Cẩu Mào có màu xám xanh với mặt dưới nhạt hơn, mặt đen, hốc mũi trùm đầu. Chân chèo có móng vuốt. Hải cẩu mào thường lặn ở độ sâu khoảng 100 đến 600 mét trong tối đa 15 phút mỗi lần. Tuy nhiên, chúng đã được ghi nhận là đi sâu tới 1000 mét trong một giờ. Hải cẩu mào sống đơn độc và sẽ đuổi những con hải cẩu khác ra khỏi lãnh thổ của chúng. Chúng chỉ đến với nhau trong mùa giao phối.
Hải cẩu mào có thể bơi nhanh với tốc độ đạt tới 27 km một giờ. Mùa sinh sản là vào mùa xuân. Hải cẩu thường chỉ ở nơi sinh sản của chúng trong 2 hoặc 3 tuần trong thời gian con cái mang thai sinh nở. Hải cẩu mào có thời gian cai sữa ngắn nhất so với bất kỳ loài động vật có vú nào. Hải cẩu mào thường có nhiều lãnh thổ hơn các loài hải cẩu khác và có thể trở nên hung dữ khi ở chế độ phòng thủ. Con con Hải cẩu Mào gọi là "Lưng xanh" do màu xanh đen của chúng được lột xác để tạo màu khi trưởng thành vào khoảng 14 tháng tuổi. Mũ trùm đầu của con đực cũng được sử dụng dưới nước như một loại máy tạo tiếng ồn khi rung lên, nó sẽ phát ra âm thanh cảnh báo những con hải cẩu khác tránh xa lãnh thổ. Có một điểm nữa thú vị là hải cẩu đực thường thổi lỗ mũi mình để tạo ra một quá bóng màu đỏ hồng vào mùa sinh sản để trình diễn trước con cái. Hải cẩu mào là con mồi cho Cá voi sát thủ và Gấu vùng cực.
 
41. Habour Seal – Hải Cẩu Bến Cảng
Hải Cẩu Bến Cảng có chiều dài: 1,85 mét , cân nặng: 130 kg. Hải Cẩu Bến Cảng sống tại vùng nước ven biển Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Baltic và Biển Bắc Băng Dương. Chúng ăn cá và thỉnh thoảng là tôm, mực, cua và động vật thân mềm. Chúng có ngoại hình màu nâu đen, rám nắng hoặc xám, có đốm, chân chèo ngắn, đầu tròn. Mặc dù thích nghỉ ngơi tại các địa điểm quen thuộc, chúng có thể dành nhiều ngày trên biển để tìm kiếm thức ăn. Chúng di chuyển tới 50 km cho việc này, thậm chí bơi ngược dòng. Hải Cẩu Bến Cảng thường tập trung tại các vịnh, bến cảng, vịnh, cửa sông và vùng bãi triều đầy cát để săn bắt cá hồi, cá cơm, cá mòi, cá vược và các loại cá khác. Chúng chủ yếu sống ở ven biển, được cho là đã được ghi nhận khi lặn xuống độ sâu hơn 500 mét. Chúng cũng từng được biết là đã tấn công và ăn thịt một số loài vịt. Một con trưởng thành có xu hướng sống đơn độc, không giống như hầu hết các loài hải cẩu khác, hiếm khi tương tác ngoài việc giao phối. Chúng có thể bơi tới khoảng 19 km / h , thường là khi chạy trốn những kẻ săn mồi. Hải cẩu cái sống tới khoảng 36 năm, con đực lên đến 31 tuổi. Ngoài con người, hải cẩu bến cảng thường bị gấu , cá mập, sói đồng cỏ, chim lớn, cáo và sư tử biển săn mồi .
 
42. Minke Whale – Cá Voi Minke
Cá voi Minke chiều dài 6,5 - 7,5 mét trọng lượng 10 tấn. Sống ở các vùng biển từ vùng biển cận Bắc Cực ở phía bắc đến vùng nước cận Nam Cực ở phía nam. Giống cá voi Minke phương Bắc có dải màu trắng trên chân chèo cá. Chúng có thể lặn kéo dài trong khoảng 20 phút. 
 
43. Bowhead Whale – Cá Voi Đầu Cong
Cá voi đầu cong hay còn gọi là cá voi Greenland, cá voi vùng cực, cá voi Bắc Cực, cá voi đầu cột, cá voi Nga…Nó có chiều dài 20 mét trọng lượng 75 đến 100 tấn. Chúng tập trung sinh sống chủ yếu ở Bắc Cực và cận Bắc Cực. Đặc điểm của chúng là các mảng màu đen, trắng dưới hàm và trên bụng, không có vây lưng. Chúng ăn bằng cách há to, lọc nước qua các tấm sừng để lọc sạch những sinh vật phù du nhỏ bé vốn là nguồn thức ăn chính của chúng. Chúng ăn tới 2 tấn sinh vật phù du nhuyễn thể mỗi ngày. Quá trình lặn của chúng có thể kéo dài tới 40 phút nhưng thường không sâu lắm. Cá Voi Đầu Cong có thể là những kẻ hoàn toàn cô độc hoặc có thể tạo thành các nhóm nhỏ có tối đa 6 cá thể mặc dù đôi khi chúng được nhìn thấy trong các nhóm lên đến 14 cá thể. Chúng có thể bơi với tốc độ gần 20 km/ giờ trong một khoảng thời gian ngắn. Cá Voi Đầu Cong có miệng lớn nhất so với bất kỳ loài động vật nào trên thế giới.
 
44. White -beaked Dolphin - Cá Heo Mõm Trắng
Cá Heo Mõm Trắng là loài cá thông minh và hiền lành sống trong đại dương. Khi nhắc đến cá heo các du khách sẽ nghĩ ngay đến những màn biểu diễn xiếc điêu luyện. Cá Heo Mõm Trắng có tên tiếng anh white-beaked dolphin. Dòng cá này khi trưởng thành chiều dài đạt 2.3 – 3m và cân nặng dao động trong khoảng 180 – 354kg. Cá Heo Mõm Trắng là dòng cá có kích thước cơ thể lớn và thân hình thoi, thuôn đều xuống đến phần đuôi. Cơ thể gọn gàng giúp cho cá bơi được với tốc độ cao.  Cá heo không có phần tai ngoài, đầu và sọ khá nhỏ. Mắt đặt ngang so với phần khóe miệng, mõm cá dài và nhọn.  Phần răng của cá giống với hình nón, giúp cá săn mồi dễ dàng hơn.
 
45. Short Tailed Vole – Chuột Đồng Đuôi Ngắn
Chuột Đồng Đuôi Ngắn rất phổ biến trong các môi trường sống đồng cỏ, đồng cỏ và đồng hoang. Nó hoạt động cả ngày lẫn đêm và ăn hạt, rễ và lá. Xa hơn nữa trong chuỗi thức ăn, nó tạo thành một phần cực kỳ quan trọng trong chế độ ăn của nhiều loài săn mồi chẳng hạn như sóc, chồn và cú. chuột đồng không phải là những nhà leo núi giỏi, thích di chuyển dọc theo mặt đất thông qua một mạng lưới các đường chạy được sử dụng tốt dẫn đến hang. Chúng có thể sinh từ ba đến sáu lứa và trải qua các đợt bùng nổ dân số vài năm một lần. Tuy nhiên sự gia tăng này không kéo dài vì chúng có tuổi thọ ngắn và trở thành con mồi cho các loài động vật khác. Chuột có màu nâu xám ở trên và xám nhạt ở dưới. Nó có bộ lông xù xì hơn so với các loài tương tự và một chiếc đuôi ngắn hơn tương. Trong mùa sinh sản, chuột đồng đực tiết ra mùi khét và khó chịu. Chúng sẽ bảo vệ lãnh thổ của mình một cách quyết liệt, kêu to và chiến đấu, thường là cho đến chết.